Đó là khẳng định của Bộ Tài chính xung quanh ý kiến tại sao lại đánh thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với xăng, trong khi đây là mặt hàng cần thiết, là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất.
Các nước đều thu thuế TTĐB với xăng
Theo Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính), thuế TTĐB là sắc thuế gián thu, thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội. Thuế TTĐB đánh vào một số hàng hóa, dịch vụ Nhà nước không khuyến khích tiêu dùng vì có hại cho sức khoẻ (thuốc lá, rượu, bia...), hoặc cần tiêu dùng tiết kiệm (như xăng gốc hoá thạch), hoặc hàng hoá, dịch vụ cao cấp, đắt tiền cần điều tiết thu nhập (ôtô, máy bay, du thuyền, chơi gôn...). Do xăng là nhiên liệu gốc hóa thạch không tái tạo, nên cần phải sử dụng tiết kiệm và theo thông lệ quốc tế xăng luôn thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB.
Tổng kết kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hầu hết các nước trên thế giới đều thu thuế TTĐB đối với mặt hàng xăng. Đơn cử, tại các nước châu Âu, Pháp thu thuế TTĐB ở mức 0,6629 EUR/lít đối với xăng E10 và 0,6829 EUR/lít đối với xăng khoáng; Đức là 0,6545 EUR/lít đối với xăng có hàm lượng sunfua dưới 10mg/kg, 0,6698 EUR/lít đối với xăng có hàm lượng sunfua trên 10mg/kg; Hà Lan là 0,81314 EUR/lít; Ý thu 0,7284 EUR/lít; Vương quốc Anh thu 0.5795 Bảng/lít.
Trong khi đó, tại các nước châu Á như Hàn Quốc có mức thu thuế TTĐB là 311 Won/lít thuế tuyệt đối và thuế tỷ lệ 15%; Trung Quốc thu 1,52 Nhân dân tệ/lít. Tại châu Đại Dương, Australia thu 0,442 AUD/lít. Ngay tại các nước trong khu vực Asean là Campuchia, mức thuế suất thuế TTĐB với xăng là 25%, Thái Lan thu 6,50 Bạt/lít đối với xăng khoáng, 5,85 Bạt/lít đối với xăng 95 E10, 5,2 Bạt/lít xăng 95 E20, 0,975 Bạt/lít đối với xăng 95 E85, 3,2 Bạt/lít đối với dầu Diesel; Singapore thu 0,41 SGD/lít; Lào thu thuế TTĐB 39%.
Tại Việt Nam, Luật Thuế TTĐB đã quy định xăng thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB từ năm 1999. Quy định này là phù hợp với mục tiêu thu thuế TTĐB và phù hợp với thông lệ quốc tế. Bộ Tài chính khẳng định, việc đánh thuế TTĐB đối với mặt hàng xăng là phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc điều chỉnh giá xăng dầu phải linh hoạt, bám sát thị trường; đồng thời, phải hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và người nộp thuế.
Mặc dù thu theo thông lệ chung, song khi so sánh với nhiều nước trên thế giới, tỷ trọng thuế trong giá xăng dầu bán ra của nước ta luôn thấp hơn mức bình quân chung (khoảng 38% đối với xăng, 20% đối với dầu nếu giá dầu thô thế giới là 80 USD/thùng; khoảng 35% đối với xăng, 18,4% đối với dầu nếu giá dầu thô thế giới là 100 USD/thùng và tỷ trọng này sẽ giảm khi giá xăng dầu tăng lên).
Trên thực tế, tỷ trọng thuế trong giá bán xăng dầu ở nhiều nước chủ yếu khoảng 45%-60% (ngoại trừ một số quốc gia có trữ lượng dầu mỏ lớn thì có tỷ trọng thấp hơn). Ngoài ra, trong giá bán xăng dầu còn có 5% - 8% chi phí vận chuyển và lợi nhuận định mức. Thời gian qua, do nhu cầu tiêu thụ xăng dầu tăng mạnh, tình hình bất ổn chính trị thế giới, xung đột vũ trang giữa Nga - Ukraina và các lệnh trừng phạt của Mỹ và EU đối với Nga, đã dẫn đến giá xăng dầu thành phẩm tăng cao và có xu hướng tiếp tục tăng trong thời gian tới.
Để đảm bảo tính kịp thời trong việc ổn định giá xăng dầu trước biến động của giá dầu thô trên thị trường thế giới, góp phần hỗ trợ phục hồi, phát triển sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội, căn cứ theo thẩm quyền, cơ cấu các chính sách thuế đối với xăng dầu và tình hình biến động giá xăng dầu trong thời gian qua, Bộ Tài chính đã chủ động phối hợp với Bộ Công thương và các cơ quan có liên quan nghiên cứu trình Chính phủ, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn.
Giảm thuế MFN vẫn khó giảm giá xăng dầu trong nước
Liên quan đến ý kiến cần điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với xăng, Bộ Tài chính cho biết, theo quy định tại Nghị định số 57/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020 của Chính phủ, thuế suất MFN đối với mặt hàng xăng là 20%, các mặt hàng dầu diezen, mazut, dầu hỏa và nhiên liệu bay có mức thuế nhập khẩu MFN là 7%. Về thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt, theo các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên, mặt hàng xăng (gồm E5, E10) có mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt (thuế suất FTA) theo ATIGA, VKFTA là 8%; theo VNEAEU là 8,8%-8% và theo Hiệp định ACFTA là 20%; các mặt hàng dầu diezen, madút, dầu hỏa và nhiên liệu bay có mức thuế nhập khẩu FTA theo VNEAEU là 7%, ATIGA và VKFTA là 0%.
Hiện nay, xăng dầu nước ta nhập khẩu chủ yếu từ các nước ASEAN, Hàn Quốc với mức thuế nhập khẩu FTA là 8% đối với xăng và 0% đối với dầu. Trong quý III/2021, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng và làm tăng giá vận chuyển hàng hóa lên rất cao. Do đó, mặc dù lượng xăng dầu nhập khẩu theo thuế suất MFN có xu hướng tăng gần đây, nhưng cũng chỉ chiếm khoảng 6% trong tổng nhu cầu xăng dầu tiêu thụ của cả nước. Khi dịch bệnh được kiểm soát và các chuỗi cung ứng được phục hồi, tỷ trọng xăng dầu nhập khẩu theo thuế suất FTA dự báo sẽ tăng nhanh trở lại như trước đây.
Từ những phân tích trên cho thấy, trong điều kiện hiện nay, việc điều chỉnh giảm mức thuế suất MFN đối với xăng dầu khó có thể làm cho giá xăng dầu trong nước giảm, do tỷ trọng nhập khẩu theo thuế suất MFN rất thấp. Chưa kể, việc điều chỉnh giảm thuế suất MFN đối với mặt hàng xăng dầu sẽ thu hẹp dư địa đàm phán các FTA mới theo nguyên tắc có đi có lại.
Ngày 23/3/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn. Theo đó, từ ngày 1/4/2022 đến hết 31/12/2022, xăng giảm 2.000 đồng/lít, từ 4.000 đồng/lít xuống 2.000 đồng/lít; dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn giảm 1.000 đồng/lít, từ 2.000 đồng/lít xuống 1.000 đồng/lít; mỡ nhờn giảm 1.000 đồng/kg, từ 2.000 đồng/kg xuống 1.000 đồng/kg; dầu hỏa giảm 700 đồng/lít, từ 1.000 đồng/lít xuống mức sàn 300 đồng/lít; nhiên liệu bay giữ như mức 1.500 đồng/lít theo Nghị quyết số 13/2021/UBTVQH15 ngày 31/12/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Với việc giảm mức thuế bảo vệ môi trường như trên, dự kiến số thu NSNN (bao gồm cả thuế bảo vệ môi trường, GTGT) từ ngày 1/4/2022 đến hết 31/12/2022 giảm khoảng 23.954 tỷ đồng, bình quân tháng giảm 2.661,6 tỷ đồng/tháng (tính trên cơ sở sản lượng tiêu thụ xăng, dầu, mỡ nhờn trong năm 2022 tương đương như thời điểm trước khi xảy ra dịch Covid-19 là năm 2019).
Nguồn: http://www.gdt.gov.vn
-----